Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

Các phương pháp thăm dò hô hấp

CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ CẬN LÂM SÀNG VỀ HÔ HẤP

Bằng phương pháp thăm khám lâm sàng cổ điển ta có thể chẩn đoán và có hướng tiến hành các loại thăm dò cần thiết một cách đúng đắn. Nhưng các tài liệu do lâm sàng cung cấp đều phụ thuộc vào trực quan của người thầy thuốc nên có thẻ khác nhau tuỳ theo mỗi cá nhân và đều không vượt khỏi tầm hạn chế mà giác quan chúng ta cho phép. Nhờ các phương tiện xét nghiệm cận lâm sàng. Người thầy thuốc đã có thể nắm được nhiều chi tiết bệnh lý một cách tinh vi, cụ thể, khách quan và chủ động hơn trong chản đoán, tiên lượng và điều trị. Với sự phát triển và áp dụng các thành tựu của khoa học và y học như tia Rơnghen, các chất đồng vị phóng xạ, kính hiển vi điện tử, sinh vật học hiện đại, việc thăm dò bộ máy hô hấp lại càng thêm nhiều tiến bộ mới.
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu các loại phương pháp thăm dò cận lâm sàng thường áp dụng đối với hô hấp:
1. Thăm dò về hình thái.
2. Thăm dò về nguyên nhân.
3. Thăm dò về chức năng hô hấp.

I. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ VỀ HÌNH THÁI

A- X QUANG

Là phương pháp bổ sung rất quan trọng cho thăm khám lâm sàng. Có nhiều trường hợp tổn thương phổi hoặc nhỏ, hoặc ở sâu chỉ nhờ có X quang mới phát hiện được. Có những trường hợp lao phổi phát hiện cũng là do X quang. Ngoài ra, X quang còn giúp ta xác định vị trí của một tổn thương hay của một vật lạ trên đường hô hấp và hướng dẫn giải phẫu một cách chính xác. Người ta sử dụng hai phương pháp, soi và chụp, mỗi loại có những chỉ định, ưu điểm cũng như nhược điểm riêng.

1.  Soi Xquang.

- Soi Xquang cho ta thấy  được các tạng đang hoạt động: nhịp đập của tim, cử động cơ hoành, đỉnh phổi thiếu sáng khi ho trong lao hoặc viêm đỉnh phổi, hiện tượng hang phổi co rúm sau khi ho,v.v…
- Soi Xquang còn có tiện lợi là thầy thuốc  có thể xoay trở người bệnh theo mọi tư thế cần thiết và có thể kiểm tra được nhiều người trong một thời gian ngắn.

2.  Chụp Xquang.

Gíup ta quan sát kỹ càng các tạng trong lồng ngực  mà khi chiếu có thể không thấy rõ, ví dụ như trong lao kê.
- Phim chụp là một tài liệu giữ được lâu dài, giúp cho việc theo dõi tiến triển của bệnh.
Người ta có thể chủ động chụp rõ từng bộ phận của các tạng nhờ một số  kỹ thuật. Hiện nay thường áp dụng các loại chụp sau: chụp thông thường hay chụp cơ bản. Chụp cắt lớp.
2.1. Chụp thông thường: chụp thẳng và nghiêng thường dùng nhất. Cho ta biết toàn bộ hình thái và những thay đổi bệnh lý của lồng ngực. Nhưng có những trường hợp trên phim chụp thông thường không thấy rõ tổn thương, nhất là những tổn thương nhỏ, vì hình ảnh trên phim là hình chiếu tất cả  các lớp của lồng ngực chống lên nhau, do đó người ta phải tìm cách chụp phân biệt  từng lớp một để nhìm rõ tổn thương.
2.2. Chụp cắt lớp: cho phép ghi được hình chếu của từng lớp mặt phẳng của người bệnh. Do đó ta có thể phát hiện được bằng cách chụp thông thường như ở vùng xương đòn, vì vướng xương đòn và hai xương sườn đầu tiên, chụp cắt lớp có thể phát hiện được.
Có nhiều phương pháp chụp cắt lớp, nhưng nguyên tắc chung của các phương pháp là làm rõ một mặt phẳng cần thiết, còn những lớp khác của lồng ngực thì mờ đi.
Trong một số trường hợp, có thể bơm hơi vào ổ màng phổi hoặc trung thất để thăm dò. Trong tràn dịch màng phổi có thể bơm hơi vào ổ màng phổi, sau khi đã chọn tháo bớt nước rồi chụp. Kỹ thuật này giúp cho chẩn đoán các tổn thương ở nhu mô phổi, các u trong hoặc ngoài màng phổi.
Gần đây người ta đã bắt đầu dùng các chất phóng xạ:
- Tiêm Iod hoặc Crom phóng xạ trong huếyt thanh có Anbumin  đã qua nhiệt độ vào tĩnh mạch để tìm độ tập trung của các chất phóng xạ ở các thuỳ phổi. Trên phim, độ tập trung đó kém ở một số bệnh như ung thư phổi, tắc động mạch phổi.
- Tiêm vào bạch mạch lipiodol phóng xạ rồi chụp  hệ thống bạch mạch của bộ máy hô hấp.

B- PHƯƠNG PHÁP NỘI SOI

Dùng một  số dụng cụ soi và đèn chiếu có thể khám được mũi, họng, thanh quản, khí phế quản.
1.  Soi mũi.
1.1. Soi mũi phía trước: nguồn ánh sáng là một đèn nhỏ, ở giữa một cái gương là treo trên trán thầy thuốc (đèn Clar). Tia sáng đo gương phản chiếu sẽ tập trung vào lỗ mũi. Dụnc ụ là một cái mỏ vịt  nhỏ gồm hai cách bằng kim loại: ta sẽ thấy vách mũi, các xương cuốn, hõm xương cuốn, và phát hiện  được một số thay đổi bệnh lý: vẹo vách ngăn, polip (thịt thừa), phì đại xương cuốn, v.v…
1.2. Soi mũi phía sau: (xem phần khám đường hô hấp trên, trong bàikhám lâm sàng bộ máy hô hấp).
Dùng một gương phẳng đưa vào sau mũi qua miệng để phản chiếu ánh sáng qua mũi, đồng thời phản chiếu cả hình ảnh của mũi và vòm hầu, mặt trên của màn hầu, lỗ sau mũi, vòm hấu với hệ thống bạch bạch huyết: các bạch bạch huyết này (V.A) có thể to ra, và tạo ra vòm hầu một hình ảnh gồ ghề.
Những tổn thươn gở mũi hầu có thể là nguyên nhân của một số bệnh đường hô hấp  khó chữa nếu không phát hiện.
2. Soi thanh quản. Cũng dùng hệ thống  soi của mũi sau, nhưng ở đây gương phẳng đặt ở đáy họng quay xuống dưới, về phía thanh quản. Ta có thể nhìn thấy ở phía trên là sụn lưỡi gà (Ép igloote), xương phẫu phía dưới, và ở sâu là đáy thanh âm.
3. Soi khí phế quản. Nếu người bệnh ngồi thằng, đầu hơi ngả ra phía trước, thì khi soi thanh quản ta có thể nhìn thấy một phần của mặt trước khí quản. Nhưng nếu muốn khám đầy đủ khí phế quản hơn, thì ta phải đưa thanh môn, khí phế quản một ống  bằng kim loại mang ở đầu một cái đèn pin nhỏ, và qua ống đó có thể nhìn thấy kí phế quản. Trước khi soi phải chuẩn bị kỹ lưỡng: tiêm thuốc an thần, gây tê họng, thanh quản, khí quản. Không nên soi  ở những người suy tim phồng quai động mạch chủ, suy hô hấp nặng. Những tai biến của soi khí phế quản gồm hai loại: do thuốc gây tê và do thủ thuật  (sốc, chấn thương). Do đó phải thận trong khi dùng thuốc  an thần và thuốc tê, và theo đúng các qui tắc của thủ thuật.
Phương pháp này  cho ta biết các thay đổi ở niêm mạc, ở lòng khí phế quản, ung thư phổi giai đoạn đầu niêm mạc chảy máu gây ho ra máu không rõ nguyên nhân trên lâm sàng, hẹp khí- phế quản, phương pháp này còn dùng để điều trị tại chỗ: hút đờm mủ và cho thuốc vào ổ áp xe phổi, lấy dị vật…
Những tổn thương ở các phế quản nhỏ không thể phát hiện được khi soi được phương pháp chụp phế quản có chất cản quang bổ sung cho soi.
4. Chụp phế quản có lipiodol. Người ta lipiodol qua một ống thông đưa vào  phế quản bằng đường mũi hoặc miệng, rồi chụp nhiều phim lồng ngực để theo dõi đường đi của chất cản quang trong phế quản và phế nang bằng cách chụp này, có thể chẩn đoán được giãn phế quản, hẹp, tắc phế quản, ápxe phổi.

C- THĂM DÒ TRỰC TIẾP MÀNG PHỔI

Nhằm:
- Xác định sự có mặt của hơi hoặc nước trong ổ màng phổi.
- Đo áp lực ổ màng phổi.
- Soi trực tiếp  ổ màng phổi, làm sinh thiết nếu cần.
1. Chọc dò. Để xác định có nước trong ổ màng phổi hay không. Động tác này rất cần thiết cho chẩn đoán và điều trị tràn dịch màng phổi. Nước rút ra có thể trong vắt, vàng chanh, đỏ máu, hoặc là mủ trong trường hợp có dưỡng chất rất hiếm. Xét  gnhệim về hoá học, tế bào và vi khuẩn học có thể giúp cho ta xác định nguyên nhân của tràn dịch.
2. Đo áp lực ổ màng phổi. Chọn màng phổi có thể xác định được tràn khí, đồng thời đo được áp lực trong ổ màng phổi, có nhiều phương pháp đánh giá:
- Đánh giá sơ bộ bằng ống bơm tiêm lắp vào kim chọc vào ổ màng phổi qua thành ngực, hoặc bằng một hệ thống gồm có kim lắp vào ống cao su, ống này lắp vào một ống thuỷ tinh cong nhúng vào một cốc nước.
- Đo áp lực bằng áp kế nước: áp kế nước thường dùng hình chữ U, chứa một dịch có màu để dễ đọc. Áp lực ghi được  đọc trên một cái thước chia độ. Kim chọc vào ổ màng phổi qua thành ngực được lắp vào một ống cao su nối với áp kế.
Ta chia áp lực ở thì hít  vào và thì thở ra, rồi lấy trung bình đại số của hai áp lực đó, gọi áp lực trung bình. Ví dụ: áp lực  -10 khi  hít vào và + 4 khi thở ra, thì áp lực trung bình là -3.
Phương pháp đo áp lực ổ màng phổi không những có giá trị về mặt chẩn đoán mà còn giúap cho điều trị: trong phương pháp bơm hơi ổ màng phổi điều trị lao phổi (hiện nay người ta có khuynh hướng bơm hơi ổ màng bụng hơn) ta dựa vào con số áp lực đo để quyết định  thể tích cũng như khoảng cách thời gian gây tràn khí màng phổi nhân tạo.
3. Soi trực tiếp ổ màng phổi. Dùng một ống kim loại, ở một đầu có đèn soi và đưa vào màng phổi sau khi đã rạch khoảng liên sườn. Mắt nhìn qua đầu ngoài của ống có thể thấy các dây dính màng phổi, hướng dẫn cắt các  dây đó, và thấy màng phổi hoặc các túi phồng phế nang. Do đó có thể chỉ định thủ thuật này trong tràn dịch hoặc trong tràn khí màng phổi.
4. Sinh thiết màng phổi. Dùng kim Silvermann chọc qua thành ngực, vào màng phổi lấy  ra bệnh phẩm. Với phương pháp sinh thiết mủ này, chúng ta chỉ sinh thiết được lá thành của màng phổi và chỉ lượm trong trường hợp có tràn dịch hoặc tràn khí màng phổi.
Có thể sinh thiết với sự kiểm tra của mắt trong khi soi trực tiếp ổ màng phổi.

 II – XÉT NGHIỆM CÁC BỆNH PHẨM CỦA BỘ MÁY HÔ HẤP

Các bệnh phẩm do người bệnh thải ra qua đường hô hấp và các bệnh phẩm do các  thủ thuật thăm dò lấy được đờm, nước màng phổi sinh thiết, đều phải xem xét nghiệm phân tích. Ngoài ra một số phản ứng đặc nghiệm của cơ thể với tác nhân gây bệnh ở đường hô hấp cũng có thể phát hiện bằng các phản ứng sinh học.

A. XÉT NGHIỆM TRỰC TIẾP.

 1. Xét nghiệm đờm. Đờm do người bệnh khạc ra, hoặc do hút trong khi soi phế quản, hoặc hút từ dịch dạ dày (nếu người bệnh  nuốt đờm), có thể đem xét nghiệm về mặt tổ chức học: bạch cầu thoái hoá, tế bào ung thư, bạch cầu ưa axit ở người hen, sợi, đàn hồi của nhu mô phổi, trong áp xe phổi, các  tinh thể Charcot – Leyden, thể Crushmann trong hen phế quản…
Về mặt văn hoá: tìm các hoá chất hoặc các bụi kim loại, đá, trong bệnh bụi phổi…
Về mặt vi khuẩn: tìm ký sinh vật, có thể tìm ký sinh  vật như sán lá phổi, nấm phổi, trực khuẩn lao, các loại vi khuẩn khác.
2. Nước màng phổi. Thường xét nghiệm về:
- Hoá học:
+  Định tính và định lượng anbumin: tỉ lệ anbumin cao trên 30g/l trong dịch tiết, và thấp dưới  30g/l  trong dịch thấm. Phản ứng Rivalta đường tính trong trường hợp thứ nhất, và âm tính trong trường hợp sau:
+ Natri clorua, glucoza và urê: không có giá trị chẩn đoán, nhưng cũng giúp cho việc định lượng các hc6át trên trong máu, lượng urê trong nước màng phổi tương tự  trong máu.
- Tổ chức học: Tổ chức tế bào, hồng cầu, bạch cầu, tế bào nội mạc, tế bào ung thư.
- Ký sinh vật và vi khuẩn học: tìm sán chó hoặc amip khi nghi ngờ nhưng trên thực tế rất ít kết quả.
Tìm vi khuẩn bằng cách soi trực tiếp  hoặc nuôi cấy trong môi trường, tiêm chuột lang. trong thực tế rất hiếm gặp kết quả dương tính đối với vi khuẩn lao.
3. Sinh thiết: bệnh phẩm có thể lấy trực tiếp ở bộ máy hô hấp: sinh thiết thanh quản, khí phế quản, màng phổi… hoặc lấy  ở vị trí có liên quan:  sinh thiết hạch cổ, hố trên đòn, v.v… xét nghiệm tổ chức học các bệnh phẩm sinh thiết cần cho chẩn đoán và điều trị.

 B- CÁC PHẢN ỨNG TOÀN THÂN

Các tác nhân bệnh lý của đường hô hấp thường gây một phản ứng toàn thân. Do đó cần thiết phải tìm những phản ứng này ngoài các xét nghiệm bệnh phẩm trực tiếp vì có khi  lâm sàng và xét nghiệm trực tiếp không đem lại  chẩn đoán quyết định, mà các phản ứng toàn thân lại  đem lại sự hỗ trợ rất quan trọng trong chẩn đoán nguyên nhân.
1. Xét nghiệm máu:
- Bạch cầu và chủ yếu bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao, trong các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, áp xe phổi. Bạch cầu ưa axit tăng trong hội chứng Loeffler.
- Viêm phổi không điển hình do cúm, được chẩn đoán bằng phản ứng Dirst. Nguyên nhân của phản ứng này: hồng cầu gà bị virus cúm ngưng kết, huyết thnah người bị cúm  có kháng thể chống lại.
Viêm phổi không điển hình còn có thể chẩn đoán bằng cách tìm các kháng  thể lạnh.
2. Phản ứng bì:
- Nghiệm pháp BCG hoặc Tubeculin giúp cho chẩn đoán bệnh lao.
- Phản ứng bì với kháng nguyên đặc hiệu:  trong một số trường hợp hen phế quản, người ta dùng những chất gây hen làm kháng nguyên. Phản ứng dương tính, có ý nghĩa chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh.

III – CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ CHỨC NĂMG HÔ HẤP.

Phổi có chức năng hấp thụ O2 đào thải CO2. quá trình trao đổi đó phụ thuộc vào khả năng không khí và tình trạng trao đổi ở các huyết quản phổi. Giữa phổi và tim có liên quan chặt chẽ tim phân phối O2 cho cơ thể và đưa CO2 lên phổi, nên những biến đổi của quá trình thông khí và trao đổi khi đều ảnh hưởng lên tim mạch (Hình 27). Thăm dò chức năng hô hấp có 3 mục đích chủ yếu:
- Đánh giá sự  trao đổi khí, sự thông khí.
- Tình hình huyết động của tiền tuần hoàn.
- Các phương pháp được sử dụng  đều nhằm đạt những mục đích đó.

I – ĐÁNH GIÁ THÔNG KHÍ

A- ĐO THỂ TÍCH HÔ HẤP

Dùng phế dung kế.
Hô hấp trong phế dung kế  biểu diễn bằng một đường hình sin, biểu đồ tỷ lệ thuận cới thể tích  không khí được hô hấp.
(Hình 28)
Kết quả: Tuỳ theo tuổi giới, tầm vóc người, những con số trung bình  của hô hấp được ghi trên một bảng đối chiếu.
Dưới đây là những số liệu trung bình ở người lớn, tầm trung bình:
- Không khí lưu thông 0,500l
- Hít vào cố 1,500l
- Thở ra cố 1,500l
- Dung tích sống 3,500l
Không khí cặn
 =  20 – 25 %
Thể tích phổi
 Để đánh giá khả năng thông khí trên những nét lớn, người ta dựa vào dung tích sống:
- Dung tích sống giảm:
- Ở những người ít luỵên tập hô hấp.
- Trong tất cả những trường hợp giảm biên độ hô hấp do tổn thương thành ngực  hoặc thay  đổi bệnh lý làm sút kém khả năng thông khí ở phổi. Ví dụ: giãn phế nang, dính màng phổi,  nước màng phổi,  lao phổi nặng, xơ phổi, người ta gọi là tình trạng thông khí hạn chế.
· Dung tích sống tăng:
- Ở những người  tập luyện nhiều.
- Ở những người bệnh có tổn thương phổi cũ đang tiến triển tốt và đang được theo dõi tập thở.
- Phương pháp tìm dung tích sống chỉ mới cho biết thể tích  không khí được lưu thông tối đa, nhưng muốn biết sự lưu thông đó có được tiến hành mau lẹ hay không, sức đàn hồi của phổi như thế nào, sự phân phối không khí trong phế nang ra sao, cần thiết phải làm một số thăm dò khác.

B- NGHIỆM PHÁP TIFFENEAU

Mục đích: tìm thể tích không khí thở ra tối đa trong một giây sau khi đã hít vào cố.
Ký hiệu của thể tích đó: VEMS (Volume expiratoire maximum (seconde).
Tiến hành: Hít vào tối đa.
Cho trục ghi quay nhanh, rồi thở ra hết sức mạnh. Khi thể tích không khí thở ra trong một giây. Đường cong ghi thể tích thở ra càng cao, VEMS càng thấp, nghĩa là thở ra  có khó khăn, ví dụ trong bệnh hen, xơ phổi (Hình 29).
VEMS
Chỉ số  Tiffeneau: =FEV1/ FVC (hay VC)
Dung tích sống : VC (Vital capacity)
bình thường là: 70 – 80%. Trong hen phế quản, giãn phế nang, chỉ số này giảm thấp gọi là rối loạn tắc nghẽn.
Trong một số bệnh phế quản bị co thắt, dùng axetylcholin bơm vào đường hô hấp có thể làm giảm VEMS, ngược lại, với alơdrin làm giãn nở phế quản, VEMS tăng lên rõ rệt.

C- LƯU LƯỢNG THỞ TỐI ĐA.

(Maximal Breathing capacity)
Đây là nghiệm pháp tổng hợp tìm dung tích sống và VEMS.
Tiến hành: thở nhanh, sâu, với tần số thích hợp nhất trong khoảng 10-20 giây. Sau đó tính ra lưu lượng thở tối đa trong một phút.
Kết quả: v=Vt x f (Trong đó, v là thể tích hô hấp trong một phút. Vt là thể tích một lần hô hấp, f là tần số hô hấp.
Bình thường  V= xấp xỉ 80% sinh lượng x f.
Ở người trung bình: V= 130l/phút.

D – TÌM THỂ TÍCH KHÔNG KHÍ CẶN.

Không khí cặn là phần không khí còn lại trong phổi, sau ki đã thở ra hết sức. Thể tích cặn lớn trong giãn phế nang, chứng tỏ tỷ lệ cho hô hấp  của thể tích phổi thấp. Ngược lại trong trường hợp  thể tích không khí cặn nhỏ quá, nếu người bệnh phổi phải gây mê để phẫu thuật, do thiếu không khí đệm trong phổi nên dễ bị ngộ độc thuốc mê hơn người bình thường.
Đo thể tích không khí cặn, người ta dùng phương pháp gián tiếp, đo độ hoà tan của một chất khí không tham gia vào trao đổi hô hấp, ví dụ khí trơ Helium hoặc Pitơ.

E – PHÂN PHỐI KHÔNG KHÍ

(Pulmonary mixing)
Qua nghiệm pháp tìm thể tích  không khí cặn, ta có thể đánh giá  được tốc độ phân phối không khí trong phế nang.
Nếu sự phân phối đó nhanh N2 được O2 di chuyển nhanh (nếu dùng N2) nhưng nếu không khí bị cản trở, quá trình thay thế  đó được tiến hành rất chậm, sau một thời gian dài đồng hồ ghi thể tích N2 mới chỉ con số tối đa không thay đổi.

GIÁ TRỊ CỦA CÁC NGHIỆM PHÁP THĂM DÒ THÔNG KHÍ

Các nghiệm pháp trên cho ta biết khả năng vận chuyển không khí của phổi. Muốn nhận định kết quả thăm dò, cần phải làm nhiều lần một nghiệm pháp, và kết hợp nhiều loại. Ngoài ra phải chú ý tới yếu tố tuổi, giới, sức, vóc, tập luyện thói quen, cũng như  hoàn cảnh thời tiết khi tiến hành thăm dò.
Thăm dò không khí mới chỉ là một bước đầu. Một yếu tố quan trọng là đành giá kết quả của sự thông khí đó: sự trao đổi O2 và CO2 ở phổi.

I – THĂM DÒ VỀ TRAO ĐỔI KHÍ

A- TÌM TỶ LỆ GIỮA  THỂ TÍCH KHÔNG KHÍ LƯU THÔNG VÀ O2 ĐỰƠC TIÊU THỤ TRONG MỘT PHÚT.

Tiến hành: chi thể tích hô hấp trong một phút thông khí ( V. sau đó để người bệnh  thở O2 trong một phút, rồi ghi thể tích O2 được hấp thụ (VO2).
Kết quả: V/VO2 tăng, khi hoạt động càng tăng sớm và tăng nhanh chứng tỏ người bệnh suy hô hấp  vì phải thở nhiều. Nhưng O2 được hấp thụ lại tương đối ít
Nguyên nhân:
1. Phân phối không khí  hít vào không tốt.
2. Mất cân xứng giữa thông khí và trao đổi khí do tổn thương ở thành phế nang, không khí tuy vào được khí phế nang nhưng không trao đổi O2 và CO2 qua thành mao mạch được. Hiện nay, để tìm hiện tượng này, người ta dùng phương pháp tính thể tích CO2 được thở ra trong một phút bằng tia hồng ngoại, dựa trên khả năng hấp thu tia hồng ngoại của CO2.
Nếu sự trao đổi O2 và CO2 kém, CO2 được đào thải qua phổi ít đi, các giải pháp hấp thụ hồng ngoại của CO2 sẽ ít đi.
3. Suy tuần hoàn: do suy tim, O2 cung cấp cho cơ thể  ít đi, người bệnh phải thở nhiều để  bù lại tình trạng thiếu Oxy.
Thăm dò không khí và thay đổi khí riêng lẽ:
Có thể tiến hành  đối với từng bệnh phổi bằng cách dùng ống thông riêng cho hai phế quản. Phương pháp này cho phép ta đánh giá được hô hấp ở mỗi bên phổi, và có ích lợi trong chỉ định  phẫu thuật phổi.

B – ĐỊNH LƯỢNG O2 VÀ CO2 TRONG MÁU

O2  và CO2 trong máu phản ánh kết quả của hô hấp. Trong thiểu năng hô hấp suy tim O2 giảm và CO2 tăng trong máu. Người ta lấy máu động mạch để xác định.
Kết quả: Bình thường.
- O2:  20-25 thể tích / 100ml máu.
Tỷ lệ bão hoà: 98%. PaO2 = 100mmHg (áp lực trong động mạch).
- CO2: 56 thể tích /100ml máu.
PaCO2 = 40mm Hg (áp lực trong động mạch) đối với Ph =7,4.
Dựa vào kết quả trên, ta có thể tính được thể tích không khí  lưu thông trong phế nang, nghĩa là lượng không khí  đã được thực hiện đưa vào phế nang, không phải là không khí vô dụng  vì ở trong khoảng chết, không tham gia vào trao đổi khí ở đường hô hấp trên, khí quản, phế quản lớn.
VCO2 x 6863
VA = 
PaCO2
 VA = 2,5 x 31/ phút
VA: thể tích không khí qua phế nang trong 1 phút (venrilation alvéolaire).
VCO2: thể tích CO2 thở ra trong 1 phút,  0,863 là một hằng số.
Giá trị của sự thăm dò trao đổi khí
Kết hợp với sự thăm dò về thông khí, sự đánh giá trao đổi khí khi nghĩ và hoạt động  có thể  giúp ta phát hiện được:
1. Rối loạn thông khí  kèm  theo biến đổi bệnh lý của CO2 và O2 trong máu.
2. Rối loạn thông khí nhưng không kèm theo  thay đổi của CO2 và O2 trong máu khi nghỉ ngơi.
3. Thông khí bình thường, nhưng có biến đổi bệnh lý của các khí trong máu.

II – NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI CỦA HUYẾT ĐỘNG

Những thay đổi của bệnh lý hô hấp ảnh hưởng trực tiếp  tới sự hấp thụ O2 và đào thải CO2 ở phổi. Tình trạng thiếu O2 sẽ dẫn tới tăng áp lực tiểu tuần hoàn và tăng sự hoạt động của tim phải,  kết quả là sự phì đại  và suy timphải.
Người ta có thể phát hiện được tình trạng đó bằng phương pháp thông timphải. Chụp tim phổi và chụp tuần hoàn của động mạch phổi bằng chất cản quang ta cũng có thể thấy những sự thay đổi do tổn thương hô hấp, ảnh hưởng lên tim mạch.

KẾT LUẬN

1. chúng ta có nhiều loại nghiệm pháp  thăm dò chức năng hô hấp, nhưng tất cả đều  nhằm đánh giá khả năng thông khí. Kết quả của thông khí hay sự thay đổi O2 và CO2 ảnh hưởng lên tim mạch, bộ phận liên quan mật thiết tới  hô hấp.
2. Cần phối hợp  và lựa chọn các nghiệm pháp thăm dò cho từng bệnh để khi nhận định kết quả cũng  như quyết định hướng điều trị được xác đáng. Dầu sao không thể nào coi nhẹ sự thăm khám và theo dõi lâm sàng được.


Nguồn : Ykhoanet

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét